Kinh tế Nam-Bắc_triều_(Trung_Quốc)

Nam Bắc triều chủ yếu là kinh tế trang viên.[76] Trang viên của thế tộc và tự viện đại bộ phận đều là sản xuất nhiều mặt hàng, có tính chất tự cấp tự túc. Đất ruộng có hệ thống thủy lợi tốt, với các loại cây trồng như lúa, dâu, gai dầu hay rau, ngoài ra còn trồng các loại cây ăn quả, nuôi cá, chăn nuôi gia súc. Về thủ công nghiệp, có nghề như dệt sợi, nấu rượu, sản xuất công cụ. Hoạt động sản xuất trong trang viên của thế tộc chủ yếu giao cho "điền khách", "bộ khúc" và "nô lệ"; trang viên của tự viện thường do tăng lữ và dân hộ sản xuất.[77] Địa chủ tập trung khai khẩn, việc này có tác dụng nhất định đối với sự phát triển của khu vực.[78] Do thế tộc dược hưởng đặc quyền, còn Phật giáo thì thịnh hành, do vậy trang viên địa chủ và tự viên tăng lên, đồng thời lại tạo thành một lượng lớn nông hộ ẩn núp. Cùng với đó là việc chiến tranh diễn ra thường xuyên, khiến cho lực lượng lao động tráng kiện của xã hội bị tổn thất rất lớn, khiến cho quốc gia cùng địa chủ và tự viện tranh đoạt với nhau về thổ địa và lực lượng lao động, bùng phát xung đột đổ máu, như "Bắc Ngụy Thái Vũ Đế diệt Phật" hay "Bắc Chu Vũ Đế diệt Phật". Cuối cùng, do các dân tộc tăng cường giao lưu kinh tế, đồng thời dung hợp thành nhất thể, xuất hiện nhiều tiềm năng mới cho sự phát triển kinh tế xã hội. Khu vực Giang Nam tiến vào một giai đoạn phát triển toàn diện, khiến trọng tâm kinh tế của Trung Quốc dời về phía nam, cuối cùng thúc đẩy việc hình thành Đại Vận Hà.[5]

Nông nghiệp

Một phần bức tranh mô tả phụ nữ thời Bắc Ngụy

Nông nghiệp là trọng tâm trong kinh tế trang viên, được triều đình và thế tộc quan tâm sâu sắc. Tình trạng chiếm lĩnh đất đai vẫn còn hết sức nghiêm trọng tại Nam triều, triều đình không thể cấm chỉ thế tộc chiếm lĩnh đất đai, năm Đại Minh thứ 1 (457) thời Lưu Tống Hiếu Vũ Đế, triều đình ra pháp lệnh thừa nhận chiếm lĩnh rừng núi sông đầm để hạn chế phạm vi chiếm đoạt của thế tộc.[chú 11] Tuy nhiên, sau khi ban bố pháp lệnh lại kích thích hào môn quyền quý tiến hành hoạt động chiếm lĩnh đất đai núi đầm.[79] Nam triều tương đối an định so với Bắc triều, di dân vẫn khồng ngừng dời về phương nam, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển. Hai châu Kinh và Dương có tăng trưởng đột xuất, còn Ích châu xếp sau. Dương châu là khu vực phát đạt nhất của Nam triều,[80] trong đó Kiến Khang cùng vùng xung quanh là nơi phát triển nhất. Khu vực Tam Ngô (Ngô quận, Ngô Hưng, Cối Kê) là nguồn cung cấp cho các khoản chi tiêu của Nam triều. Khu vực Kinh-Tương ở quanh hồ Động Đình phát triển rất nhanh chóng.[81] Ngoài ra, khu vực Hoài Nam nguyên là một trong những trọng trấn lương thực, song đến năm 451 thì chịu sự phá hoại trong chiến tranh Ngụy-Tống. Trải qua hai triều Tề và Lương, tình hình sản xuất mới được phục hồi. Các triều đại Nam triều cho xây dựng sửa chữa không ít các công trình thủy lợi, như các triều Tống, Tề, Lương cho sửa chữa Thược Bi ở Thọ Dương (nay là phía nam Thọ huyện, An Huy). Nam Tề tại Tề quận (trị sở nay là Lâm Truy, Sơn Đông) cho khai khẩn 200 khoảnh ruộng hoang, dùng nước của Thẩm Hồ để tưới ruộng.[82]

Tiền kỳ của Bắc triều, do ảnh hưởng từ hậu quả của chiến tranh từ thời Ngũ Hồ thập lục quốc, phát triển nông nghiệp tụt hậu so với Nam triều. Năm Thái Hòa thứ 9 (485), Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế nghe theo kiến nghị của Lý An Thế mà thi hành quân điền chế, đem một lượng lớn đất hoang (do hậu quả chiến tranh) chiếu theo chế độ mà phân cấp cho nông dân. Chế độ này sau đó cũng được Tây Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu và Tùy-Đường thi hành, đất ruộng được phân phối chủ yếu là "lộ điền" (trồng ngũ cốc) và "tang điền" (trồng dâu). Lộ điền chủ yếu là đất quốc hữu, có thể cấp cho nam nữ nô tì, song không thể mua bán, sau khi người được cấp qua đời thì đất bị thu hồi. Tang điền là đất tư hữu, cấp cho nam giới, có thể mua bán. Cuối cùng, quan lại địa phương có thể chiếu theo phẩm cấp mà nhận công điền. Bắc Ngụy thi hành phối hợp các chế độ "quân điền chế" và "tam trưởng chế", "tô dung điều chế", thúc đẩy nông dân sản xuất.[83] Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế thi hành vận động Hán hóa đã cải thiện được việc cai trị của quan lại, khiến nông nghiệp có thể phát triển đến mức trưởng thành. Đến năm Thần Quy thứ 3 (520), chính trị dần hủ bại, song kho lương của quan phủ vẫn tương đối đầy đủ. "Quân điền chế" và "tô điều chế" của Bắc Tề có nhiều hạn chế so với Bắc Ngụy, đồng thời làm gia tăng thuế tô của nô tì. Ở Đông Ngụy-Bắc Tề, việc tham ô cực kỳ nhiều, đến thời Nam Tề Hậu Chủ, hoang dâm hủ hoại, cho xây dựng nhiều cung điện và tự viện, hết sức xa hoa. Ở Tây Ngụy-Bắc Chu, Vũ Văn Thái làm theo kiến nghị của Tô Xước, lập chế độ dự toán thu thuế và hộ tịch, bảo đảm thu nhập cho triều đình. Do thế tộc Bắc Chu có lực lượng không lớn, lại thêm việc cai trị trong sạch hơn, nên tương đối dễ thi hành "quân điền chế". Do Tiên Ti là một dân tộc du mục, nghề chăn nuôi gia súc của họ vốn phát triển rất tốt, khu vực sản xuất chủ yếu tại vùng Mạc Nam (nay là Hà Sáo). Thời Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế, lại thiết lập bãi chăn thả tại Hà Nam để nuôi 10 vạn con ngựa. Cha của Nhĩ Chu Vinh là Nhĩ Chu Tân Hưng có nuôi bò, dê, lạc đà, ngựa.[84]

Thủ công nghiệp

Bình hình hoa sen thời Bắc Tề

Do triều đình thúc đẩy trồng dâu, đánh thuế lụa mộc và vải phù hợp, góp phần thúc đẩy sản xuất xe sợi dệt vải.[85] Ngành dệt và nuôi tằm ở Nam triều tương đối phát triển, vùng sản xuất chủ yếu là hai châu: Kinh, Dương. Do tơ, bông, lụa, vải là các hạng mục thuế chủ yếu của Nam triều; do vậy ngành xe sợi và dệt là nghề phụ phổ biến trong dân gian Nam triều. Nghề dệt gấm chiếm ưu thế tại Ích châu, Lưu Dụ sau diệt nước Hậu Tần đã cho đưa các hộ dệt gấm từ Quan Trung dời đến Giang Nam, đến thời Nam Tề và Lương thì trở nên phồn vinh. Đương thời, người nhà phú hào mặc quần thêu, đi giày gấm, dùng lụa màu để tạo hoa văn hỗn hợp, dùng lụa mỏng để làm phục trang, dùng gấm làm màn che. Triều đình Nam triều đặt ra chức quan chuyên quản lý khai mỏ và luyện kim. Luyện thép sử dụng "quán cương pháp"- một cách tạp luyện gang thỏi và sắt rèn. Phương pháp này có thể luyện ra thép chất lượng tốt, được dùng để chế tạo bảo kiếm và đao.[86] Kỹ thuật nung đồ sứ ngay từ thời Tam Quốc và Tấn đã thành thục. Thời Nam triều, thanh từ là chủ yếu, sản xuất tập trung tại Cối Kê quận (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang), loại sứ này có độ cứng cao, men đều, toàn bộ có màu lục và có cảm giác trong suốt. Các khu vực khác ở Giang Nam có những đặc điểm riêng về kỹ thuật làm đồ sứ. Giấy Nam triều trắng sạch và cân xứng, hoàn toàn thay thế thẻ tre gỗ. Giấy làm từ cây mây và giấy làm từ cây gai đều rất phổ biến.[87] Nghề đóng tàu cũng rất phát triển, có thể đóng tàu có tải trọng lên tới hai vạn hộc.

Nghề xe sợi và dệt ở Bắc triều chủ yếu là dệt tơ và xe sợi đan len, là một trong những nghề thủ công phát đạt nhất, với các trung tâm dệt tơ như Kính châu (nay là Kính Xuyên, Thiểm Tây), Ung châu (nay là Tây An, Thiểm Tây), Định châu (nay là Định Châu, Hà Bắc). Sản lượng lụa vải gia tăng khiến giá lụa hạ xuống, vào sơ kỳ, mỗi thất lụa có giá 1000 tiền, đến sau thời Hiếu Văn Đế thì giảm xuống còn 200-300 tiền. Lĩnh vực dệt tơ công có quy mô to lớn, có công xưởng trong cung hoặc trong kinh thành, là nơi sản xuất ra sản phẩm dệt tơ quý đẹp cho triều đình. Trong dân gian có "lăng la hộ", "tế kiển la hộc hộ", phân tán tại khu vực nay là Hà Bắc và Sơn Đông; họ có sản lượng lớn và chất lượng đẹp tốt. Sản phẩm của ngành xe sợi đan len chủ yếu là len, được dùng rất phổ biến, lợi nhuận rất lớn. Triều đình Bắc triều cũng đặt chức quan chuyên quản khai thác khoáng sản và luyện kim, nghề luyện sắt phát triển nhất. Sắt có sản lượng rất cao, vào năm 450 quân đội Nam triều khi chiếm được Nghiêu Ngao thú (nay là phía đông Liêu Thành, Sơn Đông) của Bắc Ngụy đã thu được một lượng lớn đồ sắt.[88] Đao rèn ở Tương châu đứng đầu toàn quốc, cuối cùng được đưa vào võ khó ở kinh sư. Kỳ Vô Hoài Văn thời Bắc Tề sáng chế ra "túc thiết đao", có độ cứng phi thường, song lại có tính mềm dai, chém được qua 30 lớp trát (lớp bằng da hoặc kim loại để lót áo giáp).[89]

Thương nghiệp

Đồ trang sức đầu ngựa bằng vàng từ thời Bắc Ngụy, khai quật tại Nội Mông

Nông nghiệp và thủ công nghiệp của Nam triều phát đạt, lại thêm giao thông đường sông tiện lợi, khiến thương nghiệp cũng phát đạt. Do nền chính trị suy yếu, tệ chế lỏng lẻo, chất lượng sản phẩm không tinh xảo.[90] Trên thị trường có các mặt hàng dụng cụ sản xuất, dụng cụ sinh hoạt và xa xỉ phẩm. Tiểu thương buôn bán ở hàng quán, đại thương vận chuyển hàng hóa đi tứ phương. Thuế thương là thu nhập chính của triều đình, song do thế tộc có đặc quyền được miễn quan thuế, từ lúc tại nhiệm đến lúc mãn nhiệm có được một lượng lớn hóa vật, sau chuyển đến bán ở các nơi. Các trọng trấn thương nghiệp có Kiến Khang, Giang Lăng, Thành Đô, Quảng Châu, Quảng Lăng; trong đó Kiến Khang là trung tâm kinh tế của Tam Ngô. Thời Lương Vũ Đế, trong thành Kiến Khang có 28 vạn cư dân, cộng thêm một vạn cống sứ, thương nhân lữ khách, dân đi thuyền. Cối Kê, Ngô quận, Dư Hàng đứng ở vị trí tiếp theo. Quảng Châu là trọng trấn mậu dịch bằng đường biển, đối tượng mậu dịch có các nước ở Đông Nam Á, Thiên Trúc, Sư Tử Quốc, Ba Tư. Giang Lăng là trạm chuyển vận giữa Quan Trung, Dự châu, Ích châu, Kinh châu, Giao châu, Lương châu. Thành Đô không chỉ có thương nghiệp phồn thịnh, mà còn là nơi sản xuất chủ yếu của gấm Thục.

Sau vận động Hán Hóa, thương nghiệp Bắc Ngụy dần trưởng thành. Về mặt hóa tệ, ban đầu lấy lụa sống, vải và ngũ cốc làm phương tiện trao đổi trung gian, sau khi Hiếu Văn Đế cải chế đã cho đúc tiền 5 thù để cải thiện, song vẫn còn khó khăn trong lưu thông. Trọng trấn thương nghiệp có Lạc Dương, Nghiệp và Trường An. Lạc Dương là trung tâm mậu dịch phương bắc, ngoài Tây Dương Môn có chợ lớn, chu vi tám lý, hết sức phồn vinh.[91] Đương thời, trừ người bán lẻ và đại thương nhân ra, rất nhiều quý tộc, quan liêu cũng tham gia vào thương mại.[92] Đối tượng mậu dịch có các nước ở Trung ÁTây Á.,[93] Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La, Già Da, Nhật Bản. Thương nhân Tây Vực chủ yếu kinh doanh vàng, ngọc trai, ngọc thạch, đồ quý; đem hàng dệt tơ, hàng công nghệ của Trung Quốc về nước.[94] Mặc dù hai triều Nam bắc giao chiến liên miên, song đến khi đình chiến thì mậu dịch lại nổi lên. Hai bên thường lấy ngũ cốc, lụa vải để thay thế tiền tệ. Phương thức mậu dịch chủ yếu có quan phương mua bán với nhau và cá nhân buôn lậu; trong đó trong dân gian, quan viên và quân đội đều có hoạt động buôn lậu. Về nhu cầu mặt hàng, Bắc triều cần mía, vải, xoài, chuối, dứa, dương mai, quýt, bưởi; cùng với các xa xỉ phẩm để quan viên và quý tộc hưởng thụ. Nam triều cần ngựa, lạc đà, sản phẩm đan len. Tuy nhiên, về tổng thể thì thương nghiệp Bắc triều không bằng được Nam triều.[95]